LỊCH SỬ KIẾM PHÁP NHẬT BẢN
Kiếm là 1 trong những vũ khí được con người sử dụng nhiều nhất trong thờI
phong kiến, khắp nơi từ Âu sang Á. Vũ khí và binh giáp của ngườI Nhật ngày xưa
có chịu ảnh hưởng phần nào từ Trung quốc,trong đó có thanh kiếm. Khi xông trận,
các kỵ sĩ trang bị áo giáp, mũ trận dày nặng, 1 tay cầm yên ngựa, tay kia cầm
kiếm. Thanh kiếm thời đó có h́nh dạng thẳng, cấu trúc đơn giản, thường dùng để
chém và đâm, động tác chiến đấu cũng chưa được tinh xảo. Theo truyền thuyết th́
đến thế kỷ thứ 8, thanh kiếm với lưỡi hơi lượn cong, cán dài cấu trúc đặc thù
Nhật bản được 1 thợ rèn tên là Amakumi chế tạo tạI tỉnh Yamoto. Song, theo những
tài liệu đáng tin cậy hơn, thanh kiếm cong độc đáo như ngày nay chúng ta thấy
xuất hiện vào thế kỷ thứ 10 (năm 940) dưới thời Heian do 1 nghệ nhân tài ba về
nghề luỵên kiếm tên là Hoki rèn. Đây chính là loại kiếm được sáng tạo và rèn
luyện rất công phu, chủ yếu để sử dụng bằng cả 2 tay khi chiến đấu. Đương nhiên,
kèm theo đó là 1 số kỹ thuật công, thủ cơ bản cũng được giới thiệu. Nhận thức
được sự lợi hại của thanh kiếm mới, nhiều kiếm sư và kiếm sĩ bèn làm 1 cuộc cách
tân về vũ khí và chiêu thức tập luyện. Trước tiên nó được dùng trong các buổi
giao đấu giữa các kiếm thủ và dần sau đó trở nên phổ biến trong quân độI thuộc
quyền các lănh chúa và dùng trên chiến trường ở qui mô lớn, bởi nó có hiệu quả
đặc biệt hơn hẳn loạI kiếm thẳng. Đă có kiếm dài (trường kiếm-tachi, hay c̣n gọi
là katana) th́ phải có kiếm ngắn và thanh đoản kiếm (kodachi, hay c̣n gọi là
wakizashi) được chế tạo cũng theo kiểu dáng cong cong tương tự. Kiếm ngắn chỉ sử
dụng khi lâm nguy (mất kiếm dài ) và để dùng trong nghi thức seppuku (mổ bụng tự
sát, 1 hành động v́ danh dự của samurai, hay c̣n gọi là harakiri)
Có thể nói từ đây môn kiếm thuật Nhật bản Kenjutsu vớI những đặc trưng riêng đă
được h́nh thành. Những kiếm sĩ thành danh thường xây dựng hệ thống kỹ thuật
riêng để lập nên những trường phái, rồi cứ thế được lưu truyền từ đời này sang
đời khác. Tinh hoa nghệ thuật cũng theo đó dần dần phát triển thêm lên. Tuy
nhiên phảI đến cuốI thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15, bài tập đốI luyện kiếm thuật (kata)
vớI tổ hợp động tác công-thủ-phản công có qui ước mớI được đưa vào hệ thống
nghiên cứu huấn luyện.Và vào cuốI thế kỷ 15, kiếm gỗ (bokken) mới được đưa vào
sử dụng trong những buổi tập luyện. Thời này lư thuyết chung về kiếm thuật đă
được hoàn thiện nhằm mục đích huấn luyện giới samurai. Không chỉ vậy, lư thuyết
này c̣n được kết hợp với tư tưởng Nho giáo để xây dựng 1 triết lư về phong cách
sống và hành động của giớI vơ sĩ đạo (bushido). Theo 1 số thư tịch cổ th́ từ thế
kỷ 15-17 trên toàn nước Nhật có khoảng 600 trường phái kiếm thuật, chưa kể các
môn vơ thuật khác. Những trường phái này cũng là nơi cung cấp nhân tài phục vụ
đắc lực cho các vị lănh chúa hoặc Tướng quân (shogun)
Thế kỷ 16-17 đánh dấu 1 bước phát triển của nghệ thuật sử dụng kiếm. Khởi đầu từ
kiếm sư Shekisu-sai (1527-1606), ngườI sáng lập trường phái Yagyu Shinkage,
được tướng quân Tokugawa Ieyashu bảo trợ. Trước đó thanh kiếm chỉ được xem như
là 1 vũ khí giết ngườI và ngườI ta luyện tập cũng v́ mục đích ấy. Nhưng do
Shekisu-sai có kiến thức có kiến thức về đạo học và mốI liên hệ gần gũi vớI
thiền sư Takuan (1573-1645), ông đă truyền giảng cho môn sinh khái niệm về sự
cảm nhận tâm linh đạt được qua việc luyện tập kiếm thuật. NgườI con ông là
Munenori (1571-1646), 1 kiếm sĩ tài ba, đă biên soạn Fudochi-Shinmyoroku, nội
dung kể về kinh nghiệm trực ngộ Thiền đạo trong kiếm thuật. Yagyu Shinkage, cũng
như Maniwa Nen, Shinkatato… là những trường phái tiên phong trong khuynh hướng
chuyển từ Kiếm đạo sang Kiếm thuật (Kendo); đồng thờI đưa kiếm tre (shinnai) vào
tập luyện, thi đấu để hạn chế tốI đa những thương tích, tử vong do kiếm thật
bằng thép và cả kiếm bằng gỗ cứng gây nên. Kiếm tre ban đầu được chế tạo bằng
cách dùng 4 mảnh tre dài ghép lạI đút vào 1 cái bao dài bằng da cóc hoặc da ḅ
thuộc,chưa có miếng là chắn che tay (tsuba). Về sau được Nakanishi Chuba,môn đệ
của Ono Tadaaki cảI tiến với bao vải thay thế bao da, thêm miếng lá chắn vào, và
trọng lượng-kích thước gần bằng kiếm thật, song có h́nh dạng thẳng
Khởi đầu chỉ có kiếm thuật hay Kenjutsu, là nghệ thuật đánh kiếm, dù thật sự từ để chỉ kiếm Nhật là katana 刀 chính là từ "đao" trong tiếng Hán để chỉ các loại vũ khí một lưỡi sắc bén. C̣n chữ Hán kiếm (tiếng Nhật ken) 剣 hay 劍 là để chỉ các vũ khí hai lưỡi . Sau thời đại Kiếm Thương, hết đánh đấm nên kiếm thuật dần dần biến thành kiếm đạo, và người thực tập kiếm đạo chú trọng luyện tinh thần cũng ngang bằng hoặc hơn cả luyện tập thuật đánh kiếm. Iaido đúng ra cũng là một phần của kendo, chuyên luyện phép đánh kiếm thần tốc: rút kiếm ở mọi tư thế và chém rất nhanh một nhát chí tử trước khi đối thủ kịp phản ứng, rồi rảy máu ở thanh kiếm, và tra kiếm vào vỏ.
Sau khi Nhu đạo phát triển vào thế kỷ 20, Kendo và Iaido trở thành những
môn riêng biệt. Kendo ngày nay ta thấy phát triển như một môn thể thao, dù người
luyện tập cũng thực hành các bài Kata 型 gồm các đ̣n thế chém đâm đỡ tiến lùi...
C̣n Iaido chỉ chuyên thực tập các bài tập kata: rút kiếm, chém, rảy máu, tra
kiếm vào vỏ. Và ở Nhật vẫn c̣n hàng trăm trường phái Kendo, cũng như hàng trăm
trường phái Iaido.
Đến thế kỷ 18, ngoài kiếm tre và sàn tập bằng gỗ trở nên phổ biến tạI các trường phái dạy kiếm, các dụng cụ hỗ trợ luyện tập như giáp che ngực, mặt nạ, mũ che đầu, găng tay bảo vệ… cũng được cách tân từ binh giáp truyền thống để trang bị cho môn sinh. Sang thế kỷ 19, Kendo phát triển rộng trong quần chúng cũng như nhiều môn vơ khác, không c̣n thu hẹp trong giới Samurai. Vào giữa thế kỷ này, nhiều cuộc biễu diễn kiếm đạo được tổ chức cho công chúng xem tại nơi công cộng, có thu tiền. Không ít kiếm sư giương danh vơ lâm qua những cuộc lưu diễn và thách đấu với người khác. Nhưng chỉ vài thập niên sau, khi văn minh cơ giớI phát triển. Súng ống, đạn dược nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí trên chiến trường. Thanh kiếm oanh liệt suốt bao thế kỷ chỉ c̣n tồn tại bên người quân nhân với công dụng thứ yếu (đánh giáp lá cà) hoặc như 1 biểu tượng quyền hành chỉ huy. Đồng thời về mặt xă hội, thời điểm các lănh chúa bị Minh Trị thiên hoàng thu hồi quyền lực cũng chính là lúc kết thúc thờI vàng son của giớI samurai. Những kiếm thủ phải về vườn hoặc chuyển nghề, nhiều môn phái phải đóng cửa. T́nh trạng này khiến các bậc thầy tâm huyết vớI kiếm đạo lo âu không ít.
Trong bối cảnh đó, 1 sự kiện lớn gây chấn động làng vơ Nhật đă xảy ra vào năm
1882 : vơ sư Jigoro Kano, 1 thiên tài vơ thuật trẻ tuổi bắt đầu truyền bá môn
Nhu đạo ( Judo ) mà ông đă dày công nghiên cứu,sáng tạo sửa đổI thêm từ
môn Nhu thuật ( Jujutsu ) cổ truyền ( ai xem "Truyền nhân Atula" hẳn phải biết
cái món ăn chơi này ^_^ ). Thành công nhanh chóng của Kano với môn vơ giàu tính
thể thao, được xem như đạt tiêu chuẩn cao về giáo dục tinh thần và thể xác theo
xu thế thời đại mới, đă trở thành nguồn cảm hứng khơi dậy ngọn lửa trong ḷng
các kiếm sư. Kiếm đạo bắt đầu thâm nhập vào học đường, tại 1 số trường trung học
và đại học. Năm 1912, cùng với Nhu đạo, Kiếm đạo được chính thức đưa vào chương
tŕnh huấn luyện thể dục ở bậc trung học áp dụng trên toàn nước Nhật. Năm 1928,
liên đoàn kiếm đạo Japanese được thành lập, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chỉnh lư hệ thống tổ chức, kỹ thuật, phương pháp huấn luyện, điều luật thi đấu…
Môn sinh theo học ngày 1 đông hơn,phát triển sang các nước lân cận và cả châu Âu,
châu Mỹ. Năm 1971, liên đoàn Kiếm đạo quốc tế ( International Kendo Federation-IKF)
được thành lập, và cũng từ đây giảI vô địch kiếm đạo thế giớI được tổ chức theo
thông lệ 3 năm 1 lần (có tư liệu khác cho rằng IKF được thành lập năm 1970 và
mớI đầu là tổ chức 2 năm/lần). Hiện nay số members của IKF bao gồm 37 đơn vị
liên đoàn và hiệp hội thuộc hơn 30 nước trên thế giới (chưa có VN )
Một chi tiết đáng ghi nhận là trong quá tŕnh phát triển môn Kiếm đạo hiện đại
có sự đóng góp ở mức độ nhất định của tổ sư môn Judo Jigoro Kano. Ông là
người đặt ra hệ thống đẳng cấp (dan-kyu) được áp dụng ngày nay. Chính
liên đoàn kiếm đạo nhật bản JKF (Japan Kendo Federation) cũng thừa nhận điều này
vào năm 1958. Là 1 nhà sư phạm lớn, 1 đại sư thấm nhuần triết lư vơ đạo, Kano
luôn sẵn sàng hỗ trợ,tạo điều kiện cho các môn phái vơ thuật đồng hành phát huy
v́ sự nghiệp giáo dục chung, không chỉ vớI kiếm đạo mà với cả Không thủ đạo (
Karatedo ). Khi vơ sư Gichin Funakosi từ đảo Okinawa đến Tokyo để truyền bá nghệ
thuật này, Kano đă dành cho người đồng đạo vơ lâm 1 phần diện tích tại vơ đường
Kodokan (Giang đạo quán) của ông để mở lớp dạy Karatedo trong nhiều năm .
Live by Honor, die by
Sword
Kiếm pháp Phù Tang trọng cái "tinh – thành thuộc" hơn là cái "xảo – kỳ ảo", cũng
có nhiều cao thủ Phù Tang nổi danh nhờ cái xảo tuy nhiên cái tinh bao giờ cũng
thắng thế.
Một kiếm khách khả dĩ có thể gọi là cao thủ nếu anh ta thoả măn những yếu tố sau
: nhanh - độc - chuẩn - ổn. "Tốc độ" là yếu tố kiến quyết hàng đầu, địch
bất động ta bất động nếu địch động ta động trước, những cái động đó chỉ trong
chớp choáng v́ vậy đ̣i hỏi kiếm thủ phải có một sự tập trung cao độ. Cao thủ
giao chiêu chỉ một sơ sót nhỏ có thể phải hối hận, chậm hơn đối phương một chút
là đă có thể mất đi nhiều tiện nghi, khi đă mất đi ưu thế ban đầu th́ khó ḷng
mà thủ thắng. Thứ đến phải nói là "hiểm độc", phải đánh vào điểm yếu, tử
huyệt của đối phương. Chỉ cần đánh trúng cho dù là nhẹ cũng đủ giết người, đó là
lư do tại sao những cao thủ vơ công cao cường đều lấy yết hầu của đối phương làm
mục tiêu (yết hầu là khoảng nằm giữa thân người và đầu, nôm na gọi là cần cổ ).
Dĩ nhiên mục tiêu như thế th́ khó mà đánh trúng được nhất là đối phương cũng di
động chứ không phải là cái bia để cho ta xỉa , nhất là với tốc độ cao, cho
nên cần phải "chuẩn – chính xác". Mà muốn như vậy th́ vơ công phải "t́nh
– thành thuộc", ra tay không hề sai lạc, những chiêu thức các kiếm thủ có khi
luyện tập đến hàng ngàn vạn lần nguyên do là đó. Và cuối cùng là "ổn". Ở
đây chính là sự ổn định về tâm lư. Ra tay nhanh, độc, chuẩn và bảo đảm ba yếu tố
trên mọi lúc mọi nơi. Tâm lư ổn định, ư chí kiên quyết, đă xuất chiêu là không
ngần ngừ, biến đổi giữa chừng. Cao thủ đối chiêu nếu có vấn đề về tâm lư hầu như
là cầm chắc thất bại, cho nên các kiếm khách thường lấy sự "vô t́nh" để làm
chuẩn cho sự "ổn định" của ḿnh. Họ không dám có t́nh cảm v́ t́nh cảm sẽ làm cho
họ mềm yếu, vợ con gia đ́nh sẽ làm cho họ phân vân mà đó chính là những yếu tố
dẫn đến sự mất ổn định về tâm lư. Có chuyện (mà cũng có thể là có thật) cả gia
đ́nh kiếm khách đều tự sát để cho người kiếm khách có thể ra đi mà không c̣n bị
bất cứ một sự ràng buộc vướng bận nào (có hơi tàn nhẫn). Biết anh hùng trọng anh
hùng, các kiếm sĩ trước khi giao chiến thường có t́nh huống hoàn thành tâm
nguyện lẫn nhau, giúp cả hai tháo gỡ những vấn đề về tâm lư để có thể thi đấu
thực hơn và toàn tâm toàn ư hơn.
Mạn phép bàn sơ qua một chút về vũ khí.
-- Vũ khí dĩ nhiên có dài có ngắn, tùy thuộc vào loại vơ công. Vũ khí dài thiện
dụng cho các loại vơ công cương mănh, phạm vi tấn công rộng răi, khống chế toàn
cục, thể hiện một tính cách chính trực, rộng răi.
-- Vũ khí ngắn thiện dụng cho các loại vơ công lấy tốc độ và cái xảo, cái hiểm
làm đầu. Chính v́ vũ khí nhẹ nên kô thể trực tiếp đương đầu với đối phương. Đă
thế th́ phải ra tay nhanh, hiểm độc, dùng nhiều kỳ chiêu khiến đối phương không
thể biết đường đón đỡ.
-- Một tấc dài một tấc lợi, một tấc ngắn một tấc hiểm. Vũ khí nào cũng có cái
hay và cái lợi riêng của nó, sử dụng vũ khí cũng phải phú hợp với tính cách con
người th́ mới có thể phát huy được vơ công đến cực hạn. Phái yếu và những ai có
tâm địa thâm hiểm, âm trầm th́ thường lựa cho cho ḿnh những vũ khí ngắn. Phụ nữ
lựa chọn vũ khí ngắn phần cũng v́ thể lực và thể h́nh của họ không phù hợp với
những vũ khí dài cồng kềnh khi sử dụng phái tốn hao nhiều sức. Người có tâm địa
thâm trầm, âm hiểm… chọn vũ khí ngắn (tất nhiên không phải tất cả đều như thế)
v́ nó hợp với tính chất của vơ công của họ, vũ khí ngắn th́ đ̣i hỏi cái xảo – kỳ
ảo nhiều hơn.